Home Blog

Đại Ninh – án tham nhũng hay đấu đá chính trị?

Những diễn biến chính trị gần đây ở Việt Nam, đặc biệt là xung quanh vụ bê bối dự án Đại Ninh trị giá hàng tỷ đô la, đã làm sáng tỏ những cách thức mà chiến dịch chống tham nhũng của đất nước đã bị lợi dụng như một công cụ cho cuộc đấu tranh giành quyền lực nội bộ trong Đảng Cộng sản. Trung tâm của vụ án này là Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm, người có tham vọng chính trị lên đến đỉnh điểm khi ông lên nắm giữ vị trí Tổng Bí thư sau cái chết của Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7.

Dự án Đại Ninh, một nỗ lực cơ sở hạ tầng lớn, đã trở thành tâm điểm của cuộc đấu tranh giành quyền lực đã phơi bày những vết nứt trong nỗ lực chống tham nhũng của Việt Nam. Phân tích của chúng tôi cho thấy đây không phải là cuộc điều tra chống tham nhũng thông thường mà là một động thái có động cơ chính trị nhằm loại bỏ các đối thủ cấp cao trong Đảng, bao gồm cả Bí thư thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ. Cả ba nhân vật này đều được coi là những đối thủ tiềm năng cho vị trí Tổng Bí thư đầy quyền lực. Thông qua việc thao túng chiến dịch chống tham nhũng, Tô Lâm đã gạt những ứng cử viên này sang một bên, đảm bảo sự trỗi dậy của ông ta lên vị trí cao nhất.

Vụ bê bối này càng củng cố thêm mối lo ngại ngày càng tăng rằng chiến dịch chống tham nhũng của Việt Nam, được khởi xướng cách đây hơn một thập kỷ, đã trở thành một phương tiện để củng cố chính trị. Dưới thời Nguyễn Phú Trọng, chiến dịch được định hình như một cuộc thập tự chinh đạo đức nhằm loại bỏ tham nhũng khỏi Đảng, với bản thân Trọng đóng vai trò là biểu tượng của sự liêm chính do ông ta được cho là không tham lam về mặt tài chính. Tuy nhiên, sự trỗi dậy của Tô Lâm đã đánh dấu sự thay đổi so với hình ảnh này. Được biết đến với mối quan hệ kinh doanh gia đình sâu rộng và lịch sử giao dịch tài chính, Tô Lâm chưa bao giờ được coi là một nhà lãnh đạo “trong sạch”. Sự trỗi dậy của ông ta lên nắm quyền không chỉ làm suy yếu uy tín của chiến dịch chống tham nhũng mà còn báo hiệu sự thay đổi mục đích của nó – từ một chiến dịch đấu tranh cho công lý sang một cơ chế loại bỏ các mối đe dọa chính trị.

Chiến thắng của Tô Lâm nhấn mạnh vấn đề rộng hơn về cách các nỗ lực chống tham nhũng thường được vũ khí hóa trong các hệ thống độc tài như Việt Nam. Thay vì đóng vai trò kiểm soát quyền lực, những nỗ lực này được áp dụng có chọn lọc để loại bỏ các đối thủ và bảo vệ lợi ích của những người nắm quyền kiểm soát. Dự án Đại Ninh chỉ là một ví dụ về cách chiến dịch bị bóp méo để phục vụ mục đích chính trị thay vì giải quyết nạn tham nhũng có hệ thống.

Nhìn về tương lai, tương lai của chiến dịch chống tham nhũng của Việt Nam có vẻ không chắc chắn. Mặc dù Đảng Cộng sản đã cam kết tiếp tục các nỗ lực của mình, nhưng sự hoài nghi vẫn còn cao. Không giống như Nguyễn Phú Trọng, Tô Lâm không có đủ thẩm quyền đạo đức để duy trì một chiến dịch chống tham nhũng thực sự. Hơn nữa, những cảnh báo liên tục của ông rằng cuộc chiến chống tham nhũng không được gây hại cho sự phát triển kinh tế cho thấy rằng chiến dịch có thể được thu hẹp quy mô hoặc định hình lại để ưu tiên sự ổn định và tăng trưởng hơn là tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Để Việt Nam đạt được tiến bộ có ý nghĩa trong cuộc chiến chống tham nhũng, nước này phải vượt ra ngoài việc sử dụng chống tham nhũng như một vũ khí chính trị. Điều này đòi hỏi những cải cách thể chế sâu sắc, bao gồm cả việc phân chia quyền lực, bảo vệ quyền công dân và minh bạch hơn trong quản trị. Nếu không có những thay đổi này, chiến dịch chống tham nhũng sẽ vẫn là một công cụ thao túng chính trị thay vì là một lực lượng thực sự để giải trình và cải cách.

Ban Chỉ đạo Trung ương Phòng Chống Tham Nhũng – Một tiểu tổ lãnh đạo của Nguyễn Phú Trọng

Khi ba trong năm nhân vật quyền lực nhất chính trường Việt Nam, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, Chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ và Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai bị thanh trừng, mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Bộ trưởng Công an Tô Lâm.

Có vài lý do cho điều này.

Đầu tiên, xét về tuổi tác, Bộ trưởng Công an Tô Lâm sẽ phải về hưu vào đầu năm 2026, khi Đại hội XIV khai mạc. Chiếm lấy một trong những chiếc ghế “tứ trụ” là điều kiện tiên quyết để ông có thể vượt qua giới hạn tuổi tác cho việc ở lại Trung ương một nhiệm kỳ nữa, chiếu theo đảng quy hiện hành. Quả thật, ít lâu sau những vụ thanh trừng vô tiền khoáng hậu, ông Tô Lâm đã được “đôn” lên làm Chủ tịch nước.

Một lý do khác, quan trọng hơn, là vai trò của Bộ Công an trong chiến dịch đốt lò mười năm qua. Dư luận tin rằng Bộ Công an, với độc quyền điều tra theo luật định, đã khống chế chiến dịch đốt lò. Theo đó, người đứng đầu Bộ Công an, Tô Lâm, đương nhiên trở thành thế lực nắm quyền sinh sát trong đảng. Giáo sư Abuza, một nhà quan sát chính trị Việt Nam lâu năm, còn đưa ra cáo buộc cụ thể là Bộ trưởng Tô Lâm đang “vũ khí hóa” chiến dịch chống tham nhũng để nuôi tham vọng chính trị cá nhân.

Dư luận có xu hướng tin vào cáo buộc này bởi ấn tượng của họ về Bộ Công an trong đời sống thường nhật. Chưa bao giờ công chúng thấy thấy Bộ Công an nhiều quyền lực đến vậy. Với ngân sách tăng không ngừng, Bộ Công an không chỉ giới hạn mình trong các công tác trị an thông thường, mà còn dài tay chiếm giữ nhiều lãnh vực vốn thuộc cơ quan khác, tạo ra cảm giác rõ ràng của công chúng về một xã hội công an trị ở Việt Nam.

Vừa sợ vừa ghét, công chúng có xu hướng tin vào những cáo buộc tham vọng quyền lực cá nhân của bất kỳ ai đến từ Bộ Công an, dĩ nhiên là bao gồm cả người đứng đầu.

Tuy nhiên, liệu điều này có phản ánh đúng những gì xảy ra trên chính trường Việt Nam?

Đúng là ông Tô Lâm có thể ở lại thêm một nhiệm kỳ nữa khi ngồi một trong những ghế tứ trụ. Nhưng nếu thế thì ông đâu cần phải loại bỏ cùng lúc ba trong năm nhân vật quyền lực nhất. Chưa kể, ghế Chủ tịch nước gần mười năm nay mang cái dớp khiến bất kỳ ai ngồi vào cũng gặp điều không may, bao gồm cả tiền nhiệm Bộ trưởng Công an của ông là ông Trần Đại Quang, ông Tô Lâm không lẽ không mảy may cân nhắc? Cũng có thể như một số người nói, ông Tô Lâm chấp nhận ghế Chủ tịch nước để nhiệm kỳ tới có thể kế nhiệm ông Trọng làm Tổng Bí thư. Nhưng cơ sở nào cho thấy ông có thể trở thành Tổng Bí thư khi ông Trọng chưa tỏ ra bất kỳ ý định nào sẽ bước xuống? Nếu ông Trọng có ý định rời ghế Tổng Bí thư, vì sao ông lại quyết định tới đây sửa Điều lệ Đảng?

Ngộ nhận tiếp theo quan trọng hơn liên quan đến vai trò của Bộ Công an trong chiến dịch đốt lò.

Đúng là Bộ Công an đang hiện diện ngày một sâu rộng hơn trong đời sống xã hội thường nhật trong bối cảnh Đảng Cộng sản Việt Nam, học theo Đảng Cộng sản Trung Quốc, tăng cường xu hướng an ninh hóa nhằm ứng phó với những thách thức của bối cảnh quốc tế đang thay đổi. Cũng đúng là chưa bao giờ công an bắt bớ cán bộ nhiều như những năm gần đây.

Tuy nhiên, những vụ ông Thưởng, ông Huệ, bà Mai không phải là án tham nhũng thông thường mà là các vụ thanh trừng chính trị, là kết quả của những tranh chấp chính trị thượng tầng. Trong cuộc chơi này, Bộ Công an không hẳn đã có nhiều quyền lực như những gì công chúng hình dung.

Cụ thể, ngay từ trước khi thâu tóm quyền hành, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kéo từ Chính phủ về một cơ quan mà sau này trở thành vũ khí chiến lược của ông – Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng Chống Tham nhũng (Ban Chỉ đạo). Cơ quan này đóng vai trò như một tiểu tổ lãnh đạo (lingdao xiaozu) theo kiểu Tập Cận Bình, một cơ chế mà lãnh đạo hạt nhân dùng để điều phối và chỉ đạo một loạt các cơ quan đảng và chính quyền nhằm thực hiện một công tác nhất định. Tiểu tổ lãnh đạo giúp lãnh đạo hạt nhân vừa chỉ đạo được một loạt các cơ quan, vừa khiến các cơ quan giám sát chéo lẫn nhau, và quan trọng nhất là không phụ thuộc vào riêng một cơ quan nào đối với công tác quan trọng.

Chẳng hạn, trong chiến dịch đốt lò, thay vì phụ thuộc vào chỉ một cơ quan, như Bộ Công an, hoặc Ủy ban Kiểm tra Trung ương, hoặc Ban Nội chính Trung ương trong công tác chống tham nhũng tiêu cực, bằng cơ chế Ban Chỉ đạo, ông Trọng vừa có thể điều phối hoạt động giữa các cơ quan vừa để chúng giám sát lẫn nhau. Vừa đạt được mục tiêu “đốt lò”, mà không lo có anh “thợ lò” nào thành kiêu binh quay lại chiếm đoạt “cái lò” của mình, đó là lý do tồn tại của các tiểu tổ lãnh đạo.

Lưu ý là trong Ban Chỉ đạo của ông Trọng không chỉ có Bộ Công an, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ban Nội chính, mà còn gồm đại diện nhiều cơ quan khác. Với 8 Ủy viên Bộ Chính trị, và nguyên tắc làm việc nhấn mạnh sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và vai trò của Trưởng ban, thật khó để nói rằng một mình ông Tô Lâm, bất luận ở vị trí Bộ trưởng Công an hay Chủ tịch nước, có khả năng chi phối toàn bộ Ban Chỉ đạo.

Riêng cái được cho giúp tạo ra sức mạnh của Bộ Công an là độc quyền điều tra của cơ quan này cũng là điều cần xem xét lại. Trong mô hình Ban Chỉ đạo, báo cáo về sai phạm của một quan chức nào đó không nhất thiết chỉ đến từ Bộ Công an mà còn có thể từ các cơ quan riêng biệt nhau như Ủy ban Kiểm tra, Ban Nội chính, Ban Tổ chức, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, và còn có thể là Tổng Cục II – Bộ Quốc phòng. Với vai trò là cơ quan tố tụng theo luật định, Bộ Công an có thể được Ban Chỉ đạo “giao” một vụ việc phát xuất từ báo cáo, công khai hoặc bí mật, của một cơ quan khác, và rồi phải xuất hiện trước công chúng như thể đã khởi sự điều tra vụ việc đó, trong khi có thể thực tế họ chỉ đang làm một vụ được “giao”.

Tóm lại, trong mô hình Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng Chống Tham nhũng, một bản sao của tiểu tổ lãnh đạo kiểu Tập Cận Bình ở Việt Nam, Bộ trưởng Công an chỉ là một thành viên, và vì thế không có khả năng chi phối Ban Chỉ đạo cũng như toàn bộ chiến dịch đốt lò. Người chủ lò quyền uy thực sự và nắm quyền sinh sát đồng chí trong tay vẫn là Đảng trưởng, tức Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Những điểm bất thường trong vụ Thuận An

0

Chính trị nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian gần đây ắt hẳn khiến công chúng và giới quan sát kinh ngạc vì những diễn biến chưa từng có tiền lệ.

Chỉ trong vòng 16 tháng đã có ba Ủy viên Bộ Chính trị hàng tứ trụ phải khăn gói ra đi theo một thủ tục đặc biệt gọi là “xin thôi”. Quy trình này được Bộ Chính trị đưa ra từ tháng 11/2021 nhằm dàn xếp sự rút lui của các quan chức cấp cao nhất mà không phải áp dụng các hình thức kỷ luật Đảng bao gồm khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ.

Trong ba trường hợp này, vụ việc ông Nguyễn Xuân Phúc có vẻ dễ hiểu trong mắt công chúng. Ông Phúc được cho là để gia đình “dính” vào vụ Việt Á – một scandal tham nhũng trục lợi trên nỗi đau của dân chúng trong đại dịch COVID-19. Vụ việc vỡ lở, ông Phúc rút lui để chịu trách nhiệm chính trị cũng là điều hợp tình hợp lý.

Nhưng trường hợp ông Võ Văn Thưởng và mới đây nhất là ông Vương Đình Huệ lại khó hiểu với công chúng hơn rất nhiều khi hàng loạt câu hỏi được đặt ra và chưa hề được giải đáp.

Cứ cho là ông Thưởng mất chức vì để người thân nhận tiền của công ty Phúc Sơn thời ông làm Bí thư Quảng Ngãi cách đây 13 năm, còn ông Huệ phải ra đi vì vài chục năm qua để cho trợ lý Phạm Thái Hà mượn danh trục lợi từ doanh nghiệp, nhưng câu hỏi là phải chăng là tới giờ này các cơ quan kiểm soát của Đảng mới biết những điều này? 

Đây là điều vô lý vì công tác kiểm soát nội bộ của các chế độ cộng sản luôn được ưu tiên hàng đầu do nhiều cơ quan cùng thực hiện nhằm kiểm chứng chéo lẫn nhau, bao gồm Ủy ban Kiểm tra, Ban Nội chính, Ban Tổ chức, Cục Bảo vệ Chính trị Nội bộ thuộc Bộ Công an và cả Tổng cục II thuộc Bộ Quốc phòng. Đó là còn chưa kể đến Tiểu ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương hoạt động rất tích cực dưới thời ông Trọng.

Thế thì, với những sai phạm cũ và kéo dài như vậy, vì sao ông Thưởng và ông Huệ có thể vượt qua những tiêu chí khắt khe đối với nhân sự cấp cao qua những kỳ Đại hội Đảng gần đây, để mà thăng tiến lên những vị trí cao nhất – hàng tứ trụ?

Vì sao những sai phạm này không được đưa ra từ sớm, để chặn những nhân sự này thăng tiến từ đầu, mà đến tận 13 năm sau trong trường hợp ông Thưởng, hay như trường hợp ông Huệ là hàng chục năm sau?

Câu trả lời đơn giản là vì người nắm quyền tối cao – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – muốn như vậy?

Bằng cách này, và cứ thế này, chỉ trong khoảng hơn một năm nữa, tức là vào lúc Trung ương phải quyết định phương án nhân sự chủ chốt, sẽ không còn một lựa chọn khả dĩ nào khác ngoài ông Trọng cho vị trí Tổng Bí thư, mặc cho hồ sơ sức khỏe và bệnh tình của ông.

Ông Trọng sẽ điềm nhiên tiếp tục nhiệm kỳ thứ 4 với lời biện bạch quen thuộc, rằng dù tuổi cao, sức yếu, năng lực có hạn, song không thể thoái thác nhiệm vụ Đảng và Nhân dân giao phó.

Nhiệm kỳ thứ 4 của ông Trọng cũng sẽ được hợp thức hóa bằng việc sửa đổi Điều lệ Đảng – lần đầu trong 15 năm – ở kỳ Đại hội tới đây. Việc sửa đổi này được chính ông Trọng công bố lần đầu tiên vào tháng 2 năm nay và sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu điều khoản giới hạn 2 nhiệm kỳ với chức danh Tổng Bí thư sẽ được gỡ bỏ.

Dĩ nhiên có người sẽ cho rằng ông Trọng không cần phải hao tâm tổn trí loại bỏ các thành viên tứ trụ khác như vậy. Với quyền lực hiện tại, nếu muốn tiếp tục nhiệm kỳ thứ 4, ông Trọng cứ thế mà ngồi lại vì rất ít ai dám thách thức vị trí của ông.

Tuy nhiên, với một người hay nhắc đến danh dự như ông Trọng, ngồi lại là một chuyện, ngồi lại nhưng không bị dèm pha và điều tiếng tham quyền cố vị lại là một chuyện khác. Ông Trọng đã từng gặp phải điều tiếng này vào Đại hội 13 khi ông ngang nhiên tiếp tục nhiệm kỳ thứ 3 của mình bất chấp giới hạn nhiệm kỳ trong Điều lệ Đảng. 

Ngoài những điều tiếng xì xào của công chúng, ông Trọng còn sẽ vấp phải phản ứng từ dư luận trong Đảng, đặc biệt là từ các nguyên lão – cán bộ cấp cao về hưu. Nhiều người trong số này thuộc lớp đàn anh của ông Trọng, vốn từng chịu ràng buộc về tuổi tác và giới hạn nhiệm kỳ, một cách tự nhiên sẽ không hài lòng trước việc ông Trọng cố tình vi phạm Điều lệ Đảng để ngồi lại. 

Họ có thể không phản đối ông Trọng một cách công khai, nhưng có thể tìm cách đưa ra thông điệp trong Đảng rằng ông Trọng nên nghỉ hưu để tạo điều kiện cho  X, hoặc Y, hoặc Z – những người trẻ khỏe và có năng lực hơn, gánh vác trách nhiệm.  

Bằng cách loại bỏ hết cả X lẫn Y lẫn Z, ông Trọng sẽ làm tắt tiếng những thông điệp như thế và tạo ra tình thế không còn lựa chọn hợp tình hợp lý nào khác ngoài cá nhân ông cho vị trí Tổng Bí thư. 

Bởi vậy, có thể cho rằng việc ông Huệ và trước đó nữa là ông Thưởng và ông Phúc bị loại sẽ mở đường cho nhiệm kỳ thứ 4 của ông Trọng.

Vụ Phúc Sơn khác với Việt Á như thế nào?

0

Ông Phúc và Việt Á

Ông Phúc và hai cấp phó thời ông đương chức Thủ tướng là Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam có lẽ là những người đầu tiên được áp dụng quy trình “xin thôi”. Chẳng những không bị truy tố hình sự, các quan chức này còn không bị áp dụng bất kỳ hình thức kỷ luật Đảng chính thức nào bao gồm khiển trách, cảnh cáo, cách chức, và khai trừ, và vẫn được hưởng đầy đủ các quyền lợi theo cấp bậc của một cán bộ cao cấp về hưu.

Dù chi tiết sai phạm không được tiết lộ song trong vụ việc ông Phúc không khó để nhận ra sự liên quan của ông đến vụ án Việt Á – một trong những scandal lớn nhất của chính trị Việt Nam những năm gần đây. 

Vụ việc xảy ra trong bối cảnh đại dịch với hậu quả to lớn khiến công chúng hết sức bất bình. Sự quan tâm của công chúng và mức độ nghiêm trọng của vụ việc có thể là lý do chính để Việt Á trở thành hồ sơ đưa vào diện quan tâm theo dõi của Ban Chỉ đạo Trung ương Phòng chống Tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng đứng đầu. 

Quá trình điều tra lâu dài trải qua nhiều tỉnh thành và liên đới tới nhiều lãnh đạo bộ ngành và địa phương cuối cùng đã dẫn đến ông Phúc và hai cấp phó của mình là Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam. 

Đáng chú ý, ngay trước khi ông Phúc “xin thôi”, Bộ Công an đã khởi tố người được cho là có mối quan hệ gia đình với ông là bà Nguyễn Thị Thanh Thủy theo Điều 336 Bộ luật Hình sự về “tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi.”

Điểm khác biệt của vụ Phúc Sơn

Nếu ông Phúc bị cho là ngã ngựa vì liên quan đến vụ Việt Á thì ông Thưởng bị cho là có dính dáng đến vụ án của một công ty có tên là Tập đoàn Phúc Sơn. 

Công ty này trúng thầu một số dự án ở Quảng Ngãi thời gian ông Thưởng làm Bí thư tỉnh này cách đây hơn 10 năm. Trong những thông cáo báo chí của Bộ Công an khi điều tra vụ việc nhiều người tinh ý nhận ra bên cạnh việc khởi tố các cựu quan chức Quảng Ngãi, Bộ Công an đồng thời khởi tố một cán bộ cấp huyện ở tỉnh Vĩnh Long quê ông Thưởng, cũng với tội danh “lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi” theo Điều 336. 

Tuy nhiên điểm tương đồng này chỉ là về hình thức đánh án của Bộ Công an, như để che giấu đi những điểm khác biệt căn bản trong hai vụ việc, từ đó có thể dẫn đến những hàm ý quan trọng. 


Đầu tiên, khác với vụ Việt Á gây chấn động dư luận, không ai biết đến những sai phạm của Phúc Sơn cho đến khi Bộ Công an chỉ ra. Xảy ra trong bối cảnh đại dịch, Việt Á thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận như một ví dụ cho thấy tham nhũng ở Việt Nam đã trầm trọng tới mức nào với những quan chức sẵn sàng trục lợi trên cơn bĩ cực của dân chúng. Trái lại, những công ty như Tập đoàn Phúc Sơn, dựa hơi quan chức trung ương đi kiếm dự án cơ sở hạ tầng ở các tỉnh thành và có chút “bôi trơn” cho các quan chức địa phương đã trở thành điều quá đỗi bình thường ở Việt Nam trước đây cũng như hiện nay. 

Điểm khác biệt thứ hai nằm ở chỗ tiến độ làm án Phúc Sơn quá nhanh. Khác với vụ Việt Á để đi đến kết luận về sự liên quan của ông Phúc phải trải qua quá trình điều tra lâu dài nhưng hợp lý, vụ việc Phúc Sơn đã diễn ra với tốc độ kỷ lục. Chỉ chưa đầy một tháng kể từ khi Bộ Công an cung cấp thông tin đầu tiên về vụ việc vào ngày 26/2/2024 cho đến hậu quả chính trị của nó là sự ra đi của ông Thưởng vào ngày 20/3/2024.

Điểm khác biệt thứ ba nằm ở chỗ nếu như vụ Việt Á xảy ra khi ông Phúc đang đương chức Thủ tướng và sau đó là Chủ tịch nước, thì vụ Phúc Sơn đã xảy ra cách đây hơn 10 năm. Các cơ quan nội chính và tổ chức dày đặc của Đảng đã rà soát hồ sơ của ông Thưởng thế nào trước khi ông ấy được cất nhắc cho những vị trí cấp cao qua những kỳ Đại hội Đảng gần đây, đến tận chức vụ Chủ tịch nước?

Cuối cùng, về mặt hình thức, trong khi Việt Á là vụ việc nghiêm trọng được Ban Chỉ đạo Trung ương Phòng chống Tham nhũng đưa vào diện theo dõi thì Phúc Sơn tới giờ vẫn chưa được coi nghiêm trọng đến mức xếp vào diện này, dù hậu quả chính trị là tương đương với sự ra đi của một trong tứ trụ triều đình. 

Những điểm đặc biệt trong vụ việc của ông Thưởng đưa đến những câu hỏi quan trọng khác, như vì sao Bộ Công an lại làm án Phúc Sơn thời điểm này và án Phúc Sơn có phải là án ngược hay không, theo nghĩa quyết định ông Thưởng phải ra đi đã có từ trước, còn vụ Phúc Sơn chỉ là cái cớ cần thiết. Trả lời những câu hỏi này sẽ góp phần lý giải những động cơ khả dĩ cho quyết định của phe nắm quyền hiện tại, ở đây là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chấm dứt sự nghiệp chính trị của ông Võ Văn Thưởng – vốn là điều không dễ nhận ra trong nền chính trị cung đình kém minh bạch của đảng cộng sản.

Thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm giải trình: Khuyến nghị quan trọng của Mặt trận Tổ quốc

0

Trong một động thái đáng hoan nghênh hướng tới nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gần đây đã đề xuất việc kê khai tài sản của quan chức cần được công khai, cho phép người dân tham gia giám sát tích cực. Đây là đề xuất đáng khen ngợi, phù hợp với nguyện vọng của người dân Việt Nam, thúc đẩy sự tham gia của người dân, đề cao các quyền hiến pháp, góp phần xây dựng một chính phủ cởi mở, có trách nhiệm và phản ứng nhanh hơn.

Trao quyền cho công dân thông qua công khai tài sản

Đề xuất của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt là của bà Trương Thị Ngọc Anh, Phó Chủ tịch Trung ương, nêu rõ sự cần thiết của việc nhân dân giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ, cá nhân có chức vụ quyền lực trong Chính phủ. Đề xuất này khuyến khích giám sát trực tiếp, đảm bảo rằng người dân có thể cảnh giác theo dõi bất kỳ dấu hiệu hoặc hoạt động đáng ngờ nào liên quan đến các quan chức cư trú trong khu vực lân cận của họ.

Thông qua hệ thống giám sát của nhân dân này, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị, xã hội khác có thể kiến nghị cấp ủy, đơn vị trực tiếp kiểm tra cán bộ, đảng viên có biểu hiện nghi vấn. Đây là một ví dụ tuyệt vời về cách sự tham gia của công chúng có thể hoạt động như một cơ chế kiểm tra và cân bằng trong một nền dân chủ, góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Thúc đẩy sự trong sạch và minh bạch của tài sản

Nguyên tắc cơ bản đằng sau việc kê khai tài sản là thúc đẩy tính minh bạch và thể hiện sự trong sạch về tài sản của các quan chức chính phủ. Sự minh bạch là điều cần thiết trong việc tạo dựng niềm tin trong công chúng. Tài sản của công chức càng nhiều thì người dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của họ.

Để đảm bảo một hệ thống mạnh mẽ và toàn diện, đề xuất nên thiết lập một trang web chuyên dụng để công bố công khai các bản kê khai tài sản. Nền tảng kỹ thuật số này phải dễ dàng tiếp cận đối với tất cả các bên quan tâm, cho phép người dân xem xét tình hình tài chính của các quan chức. Cơ chế này không chỉ mang lại sự minh bạch mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của người dân vào quá trình giám sát.

Có đề xuất rằng việc kê khai tài sản là bắt buộc đối với các quan chức khi họ còn đương chức. Biện pháp này đảm bảo rằng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình không chỉ là những lời hứa suông mà được thực hiện tích cực trong suốt nhiệm kỳ của một quan chức.

Để nâng cao hiệu quả, hai loại hình kê khai tài sản được khuyến nghị: một loại dành cho cá nhân có tài sản công đáng kể và loại kia dành cho những người không có tài sản công. Sự phân tầng này cho phép xem xét kỹ lưỡng và chính xác hơn. Cán bộ có tài sản sẽ phải chịu sự cảnh giác của nhân dân. Trong trường hợp tài sản cố ý giấu kín, không kê khai và phát hiện sai lệch thì có thể áp dụng biện pháp xử phạt.

Giải quyết việc thu hồi tài sản

Để tăng cường thu hồi tài sản tham nhũng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề xuất một số khuyến nghị quan trọng:

Sửa đổi quy định pháp luật: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật để trao quyền cho cơ quan điều tra các biện pháp khẩn cấp. Các biện pháp này nên bao gồm tạm giữ, đình chỉ giao dịch tài khoản và tạm thời phong tỏa tài sản trong giai đoạn xác minh các vụ án liên quan đến nguồn gốc tội phạm. Các bước này sẽ đẩy nhanh việc thu hồi tài sản bị mua chuộc một cách tham nhũng.

Công khai bản kê khai tại nơi cư trú: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kêu gọi thể chế hóa các quy định về kê khai thu nhập, tài sản tại nơi cư trú. Điều này sẽ cho phép người dân chủ động giám sát việc kê khai, tạo ra một chính phủ minh bạch và có trách nhiệm hơn.

Quản lý cơ quan thanh tra, kiểm toán: Các quy định cần phù hợp với nhiệm vụ của Đảng và Hiến pháp 2013, trao quyền cho thanh tra, kiểm toán thực hiện các biện pháp ngăn chặn tẩu tán tài sản khi phát hiện dấu hiệu tham nhũng, tội phạm kinh tế.

Khuyến khích hoàn trả tài sản tự nguyện: Để khuyến khích những người liên quan đến tội phạm kinh tế trả lại tài sản có được trái pháp luật và chịu trách nhiệm về hậu quả, cần phải thiết lập các cơ chế.

Kê khai tài sản Chính phủ: Chính phủ cần chủ động kê khai tài sản của cán bộ, công chức, cá nhân có chức vụ quyền lực. Điều này bao gồm tài sản có được ở nước ngoài thông qua các hoạt động tội phạm.

Hành động pháp lý về bồi thường: Đề xuất khuyến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý để tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức chịu trách nhiệm về việc thất thoát tài sản nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Kiểm soát đầu tư nước ngoài: Để hạn chế tham nhũng và nâng cao trách nhiệm giải trình, quản lý

Các quy định liên quan đến đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là bất động sản, cần được sửa đổi.

Hình sự hóa hành vi làm giàu bất chính: Làm giàu bất chính cần được hình sự hóa trong Bộ luật Hình sự, nhấn mạnh cam kết chống lại sự giàu có bất chính.

Giám sát địa phương: Chính quyền địa phương cần tăng cường cảnh giác, phát hiện sớm các vi phạm dẫn đến thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước, đặc biệt trong quản lý đất đai, tín dụng.

Những khuyến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam báo trước một kỷ nguyên mới về tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân trong quản lý nhà nước ở Việt Nam. Bằng cách ủng hộ việc công khai bản kê khai tài sản và đưa ra lộ trình thu hồi tài sản tham nhũng, những đề xuất này khuyến khích các quan chức hoạt động một cách liêm chính và củng cố niềm tin của công chúng. Trong bối cảnh đang phát triển này, Việt Nam sẵn sàng nâng cao danh tiếng của mình như một quốc gia hướng tới quản trị trong sạch, đảm bảo lợi ích của người dân vẫn được đặt lên hàng đầu.

Tăng cường giám sát công cộng: Chìa khóa cho các biện pháp chống tham nhũng hiệu quả


Cuộc chiến chống tham nhũng là nền tảng của bất kỳ xã hội công bằng và thịnh vượng nào. Ở Việt Nam, cũng như nhiều quốc gia khác, trọng tâm đã chuyển sang hoàn thiện cơ chế xác minh tài sản cho công chức. Trong khi các đề xuất thành lập các cơ quan chuyên môn nhằm mục đích này đang thu hút được sự chú ý thì một điểm cải cách quan trọng hơn nằm ở việc công khai bản kê khai tài sản. Sự minh bạch trong quá trình này mà các tổ chức xã hội dân sự và báo chí có thể tiếp cận được là chìa khóa để xây dựng niềm tin và đảm bảo rằng tham nhũng được loại bỏ tận gốc.


Cơ chế kiểu bốc thăm “xổ số” hiện nay được sử dụng để xác minh tài sản của các quan chức đã bị giám sát chặt chẽ. Các chuyên gia cho rằng hệ thống này dựa vào lựa chọn ngẫu nhiên nên có những hạn chế cố hữu. Để giải quyết vấn đề này, cử tri và các chuyên gia đã đề xuất thành lập cơ quan chuyên môn để tiến hành xác minh tài sản. Tuy nhiên, đề xuất này đi kèm với những thách thức riêng.

Thế lưỡng nan của cơ quan đặc trách
Cơ quan đặc trách nếu được thành lập thì không được hoạt động độc lập. Hiệu quả của một cơ quan như vậy phụ thuộc vào tính minh bạch, điều này chỉ có thể đạt được bằng cách công khai các bản kê khai tài sản. Điều này sẽ cho phép các tổ chức xã hội dân sự và báo chí giám sát chặt chẽ, đồng thời duy trì các nguyên tắc tự do hiệp hội và tự do báo chí.


Minh bạch trong kê khai tài sản là mấu chốt của các biện pháp chống tham nhũng hiệu quả. Khi công chúng có thể tiếp cận và xem xét kỹ lưỡng những bản kê khai này, nó sẽ trở thành một biện pháp ngăn chặn mạnh mẽ các hành vi tham nhũng. Các quan chức nhận thức sâu sắc rằng các vấn đề tài chính của họ luôn bị công chúng giám sát, buộc họ phải duy trì sự trung thực và liêm chính.


Chính phủ đã thực hiện các bước để tăng cường xác minh và quản lý việc kê khai tài sản, thu nhập theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và các quy định liên quan. Một bước phát triển quan trọng là việc xác minh tài sản, thu nhập theo kế hoạch hàng năm đối với những người có nghĩa vụ kê khai. Năm 2022, xác minh trên 7.662 cá nhân, phát hiện 74 trường hợp không chấp hành quy định về kê khai.

Báo chí ở Việt Nam được coi là công cụ tư tưởng, vũ khí tuyên truyền của Đảng Cộng sản, thay vì là nơi phản ánh tiếng nói của người dân.

Con đường phía trước: Trao quyền cho công chúng giám sát
Khi chính phủ khám phá khả năng của các cơ quan chuyên môn, điều quan trọng là phải ưu tiên tính minh bạch làm mục tiêu cuối cùng. Quyền của người dân được tiếp cận và kiểm tra bản kê khai tài sản là vũ khí lợi hại nhất trong cuộc chiến chống tham nhũng. Bước này sẽ không chỉ trao quyền cho người dân buộc các quan chức của họ phải chịu trách nhiệm mà còn tạo ra văn hóa trung thực và liêm chính trong đội ngũ công chức.


Khái niệm cơ quan chuyên trách tuy đầy hứa hẹn nhưng cần được triển khai trong dài hạn, trên cơ sở đánh giá sơ bộ và cuối cùng về các quy định của Đảng và pháp luật nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập. Trước mắt, mô hình cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập hiện nay cần tiếp tục hoạt động theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.


Khi Việt Nam tiến lên trong nỗ lực chống tham nhũng, điều cần thiết là phải ưu tiên tính minh bạch. Việc kê khai tài sản có thể được công chúng, các tổ chức xã hội dân sự và báo chí tiếp cận là công cụ mạnh mẽ nhất trong kho vũ khí. Bước đi táo bạo này sẽ tạo ra một nền văn hóa liêm chính, đề cao các nguyên tắc tự do hiệp hội và tự do báo chí, đồng thời thúc đẩy Việt Nam hướng tới một tương lai minh bạch và có trách nhiệm hơn. Đã đến lúc phải tin tưởng vào công chúng và trao quyền cho họ trở thành những người bảo vệ thận trọng cho sự toàn vẹn của đất nước họ.

Cơ sở dữ liệu chính sách và pháp luật chống tham nhũng ở Việt Nam

0

Khi Việt Nam đang vật lộn với thách thức phức tạp của tham nhũng, sự hiểu biết toàn diện về bối cảnh chống tham nhũng hiện nay của quốc gia là điều tối quan trọng. Cơ sở dữ liệu này đóng vai trò như một kho lưu trữ tổng hợp, cung cấp thông tin chuyên sâu về các chính sách, luật và quy định quan trọng về chống tham nhũng của Việt Nam. Đi sâu vào những diễn biến gần đây và khuôn khổ pháp lý, cơ sở dữ liệu tìm hiểu nhiều chủ đề đa dạng, từ những quan điểm đa sắc thái được Chánh án Nguyễn Hòa Bình chia sẻ về làm giàu bất chính cho đến các biện pháp chiến lược do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thực hiện nhằm đáp lại lời kêu gọi công khai tài sản . Ngoài ra, nó còn xem xét kỹ lưỡng những vướng mắc pháp lý, cơ chế xác minh đổi mới và đánh giá các luật quan trọng, như Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 và Luật Cán bộ, công chức Việt Nam năm 2019. Hơn nữa, cơ sở dữ liệu cung cấp đánh giá kỹ lưỡng về Việt Nam. Luật Thanh tra được ban hành vào năm 2022, xác định những sơ hở tiềm ẩn cần được chú ý. Cùng với nhau, các bài viết này cung cấp cho các bên liên quan, các học giả và công chúng một sự hiểu biết toàn diện và đa sắc thái về những nỗ lực chống tham nhũng đang diễn ra của Việt Nam, nêu bật cả những tiến bộ và các lĩnh vực cần được xem xét kỹ lưỡng và nâng cao hơn nữa.

Sau đây là các luật, nghị định, và quy định quan trọng liên quan đến nỗ lực chống tham nhũng ở Việt Nam:

  1. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 là khuôn khổ pháp lý then chốt trong nỗ lực chống tham nhũng không ngừng nghỉ của Việt Nam. Được ban hành để tăng cường các nỗ lực chống tham nhũng của quốc gia, luật này đưa ra các biện pháp và hình phạt toàn diện nhằm buộc các cá nhân và tổ chức phải chịu trách nhiệm về các hoạt động tham nhũng, nhấn mạnh tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và thúc đẩy hành vi đạo đức trong khu vực công và tư nhân.
  2. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi năm 2019): Luật Cán bộ, công chức, ban đầu được ban hành năm 2008 và được sửa đổi năm 2019, là công cụ định hình bức tranh hành chính công của Việt Nam. Luật này thiết lập các tiêu chuẩn đạo đức, trách nhiệm và thủ tục tuyển dụng công chức, với trọng tâm là đảm bảo một bộ máy quan liêu chuyên nghiệp, minh bạch và không tham nhũng, từ đó nâng cao niềm tin của công chúng vào chính phủ.
  3. Luật Thanh tra năm 2022: Được ban hành vào năm 2022, Luật Thanh tra là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phòng chống tham nhũng của Việt Nam. Đạo luật này trao cho các cơ quan thanh tra quyền tăng cường để điều tra các vụ tham nhũng và các vi phạm trong cả khu vực công và tư nhân, củng cố cam kết của chính phủ trong việc loại bỏ tận gốc các hành vi tham nhũng ở tất cả các cấp.
  4. Bộ luật Hình sự năm 2015: Bộ luật Hình sự năm 2015 là nền tảng của hệ thống pháp luật Việt Nam trong việc xử lý các tội phạm liên quan đến tham nhũng. Bộ luật toàn diện này nêu ra các định nghĩa và hình phạt đối với các tội phạm liên quan đến tham nhũng, đảm bảo rằng các cá nhân có hành vi tham nhũng phải đối mặt với những hậu quả pháp lý thích đáng, do đó đóng vai trò là biện pháp ngăn chặn mạnh mẽ hành vi tham nhũng.
  5. Nghị định Chính phủ số 130 năm 2020 về Giám sát tài sản của cán bộ, công chức: Nghị định Chính phủ số 130 năm 2020 đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong đội ngũ cán bộ, công chức. Bằng cách áp đặt các yêu cầu giám sát tài sản nghiêm ngặt, nghị định này nhằm ngăn chặn hành vi làm giàu bất hợp pháp và tham nhũng trong giới quan chức, củng cố cam kết của chính phủ trong việc duy trì các tiêu chuẩn đạo đức trong dịch vụ công.
  6. Quyết định của Bộ Chính trị số 56 năm 2022 về Phối hợp giám sát tài sản của cán bộ, công chức (văn bản mật, được đề cập ở Hướng dẫn 03 Ban Bí thư): Quyết định của Bộ Chính trị số 56 năm 2022 nhấn mạnh cam kết cấp cao nhất trong việc chống tham nhũng trong bối cảnh chính trị Việt Nam. Quyết định này nhấn mạnh sự phối hợp, giám sát hoạt động giám sát tài sản của cán bộ, công chức, thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc duy trì tính liêm chính của lực lượng lao động.
  7. Quy định của Bộ Chính trị số 163 về cơ cấu, hoạt động và nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng: Quy định của Bộ Chính trị số 163 đóng vai trò là trụ cột trong cơ cấu tổ chức dành riêng cho các nỗ lực chống tham nhũng ở Việt Nam. Nó xác định vai trò, trách nhiệm và hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống Tham nhũng, đảm bảo sự phối hợp và giám sát hiệu quả các sáng kiến chống tham nhũng ở cấp cao nhất của chính phủ.

Phân tích chính sách và pháp luật chống tham nhũng ở Việt Nam:

“Hướng dẫn 03 của Ban Kiểm tra: Bất lợi pháp lý trong đấu tranh chống tham nhũng”
Việc Ban Kiểm tra ban hành Hướng dẫn 03 mới đây đánh dấu thời điểm then chốt trong cuộc chiến chống tham nhũng đang diễn ra ở Việt Nam. Tuy nhiên, thay vì được ca ngợi là một bước tiến bộ, ngày càng có nhiều lo ngại rằng chỉ thị mới này có thể là một bước thụt lùi về mặt pháp lý trong cuộc chiến chống tham nhũng. Sự phức tạp của Hướng dẫn 03, tác động tiềm ẩn của nó đối với các biện pháp chống tham nhũng hiện có và những tác động rộng hơn đối với bối cảnh pháp lý hiện đang được xem xét kỹ lưỡng, làm dấy lên các cuộc tranh luận trong giới pháp luật và giữa những người nỗ lực thúc đẩy tính liêm chính trong đời sống công cộng.

Cơ chế “Xổ số” xác minh tài sản của quan chức Việt Nam trong Nghị định 130: Trò tung xúc xắc trong cuộc chiến chống tham nhũng”
Một cách tiếp cận mới để xác minh tài sản của quan chức Việt Nam đã xuất hiện, được một số người coi là cơ chế “xổ số”. Phương pháp độc đáo này, giống như trò chơi tung xúc xắc, đưa yếu tố may rủi vào hoạt động kinh doanh nghiêm túc nhằm chống tham nhũng. Ý nghĩa của chiến lược đổi mới này đối với tính hiệu quả của các nỗ lực chống tham nhũng, những cạm bẫy tiềm ẩn và những phản ứng mà nó gây ra từ nhiều phía hiện đang là chủ đề được thảo luận sôi nổi. Khi Việt Nam thử nghiệm cách tiếp cận không chính thống này, có rất nhiều câu hỏi liên quan đến tính phù hợp của nó trong bối cảnh mà độ chính xác và độ tin cậy trong việc xác minh tài sản là tối quan trọng.

“Luật PCTN 2018 của Việt Nam: Nhìn sâu hơn những bất cập”
Việc thông qua Luật Phòng chống tham nhũng của Việt Nam năm 2018 là một cột mốc quan trọng trong cam kết chống tham nhũng của đất nước. Tuy nhiên, xem xét kỹ hơn sẽ thấy rằng luật này không phải không có những hạn chế. Bài viết này đi sâu vào những điểm phức tạp của Luật Chống Tham nhũng, làm sáng tỏ những lĩnh vực mà Luật này có thể chưa giải quyết được những thách thức nhiều mặt do tham nhũng gây ra. Bằng cách phân tích kỹ càng các quy định của pháp luật, cơ chế thực thi và tác động tổng thể, báo cáo nhằm mục đích góp phần nâng cao hiểu biết sâu sắc về những nỗ lực đang diễn ra nhằm tăng cường khuôn khổ chống tham nhũng của Việt Nam.

“Đánh giá Luật Cán bộ, công chức Việt Nam 2019: Khắc phục bất cập trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng”
Luật Cán bộ, công chức Việt Nam, ban hành năm 2019, là một bộ phận quan trọng trong kho vũ khí pháp lý của Việt Nam trong cuộc chiến chống tham nhũng trong khu vực công. Tuy nhiên, việc đánh giá quy định này bộc lộ một số hạn chế cần được quan tâm. Bài viết này tiến hành phân tích toàn diện Luật Cán bộ, công chức Việt Nam, tìm hiểu những lĩnh vực mà Luật có thể còn hạn chế trong cuộc chiến chống tham nhũng. Bằng cách xác định những hạn chế này, bài viết mong muốn góp phần vào các cuộc thảo luận đang diễn ra về cách củng cố khung pháp lý quản lý công chức và thúc đẩy trách nhiệm giải trình cao hơn.

“Rà soát Luật Thanh tra Việt Nam (2022): Nhận diện sơ hở trong đấu tranh chống tham nhũng”
Việc ban hành Luật Thanh tra Việt Nam vào năm 2022 được kỳ vọng sẽ củng cố các cơ chế chống tham nhũng của quốc gia thông qua các quy trình thanh tra nâng cao. Tuy nhiên, việc xem xét quan trọng đối với luật này đã phát hiện ra những lỗ hổng tiềm ẩn có thể làm suy yếu mục đích dự định của nó. Bài viết này tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ Luật Thanh tra Việt Nam (2022), nhằm xác định những lĩnh vực có thể tồn tại những điểm yếu và đặt ra thách thức đối với hiệu quả của các sáng kiến chống tham nhũng. Khi Việt Nam nỗ lực củng cố khuôn khổ thể chế, việc hiểu và giải quyết những lỗ hổng tiềm ẩn này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo sự thành công của luật pháp trong cuộc chiến chống tham nhũng đang diễn ra.

Động lực chống tham nhũng và các mệnh lệnh đạo đức của nó

0

Trong thời gian gần đây, chiến dịch chống tham nhũng ở Việt Nam có bước chuyển biến độc đáo, làm nổi bật cách Đảng Cộng sản, do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo, đã tiếp cận cuộc chiến chống tham nhũng như thế nào. Vụ Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam từ chức giữa những cáo buộc tham nhũng trong đại dịch Covid-19 đặt ra những câu hỏi thích đáng về chiến lược của Đảng và những khía cạnh đạo đức sâu sắc hơn của nó. Mặc dù những vụ từ chức này được ca ngợi là nêu gương về trách nhiệm chính trị, nhưng chúng cũng chỉ ra sự phụ thuộc của chiến dịch vào các nhân vật cá nhân hơn là những cải cách mang tính hệ thống để có các biện pháp chống tham nhũng hiệu quả và công bằng.

Dẫn đầu bằng ví dụ

Quyết định từ chức của hai Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam trước cáo buộc tham nhũng đang được coi là hành vi làm gương cho đảng viên, đặc biệt là cấp trên. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh những đóng góp của họ và cho rằng việc từ chức của họ phản ánh sự thừa nhận của họ về sự thiếu sót trong việc đáp ứng yêu cầu và trách nhiệm được giao.

Việc tự nguyện từ chức của quan chức cấp cao quả thực là một hành động ý nghĩa và đáng biểu dương. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của trách nhiệm chính trị và là tấm gương cho những người khác ở các vị trí quyền lực, bao gồm các thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương. Tuy nhiên, mặc dù động thái này đáng ngưỡng mộ xét về mặt đạo đức, nhưng nó lại để lại những câu hỏi quan trọng về chiến lược chống tham nhũng rộng hơn mà Đảng Cộng sản đang áp dụng.

Những vụ từ chức gần đây đánh dấu một sự thay đổi đáng chú ý trong bối cảnh chống tham nhũng ở Việt Nam. Họ đại diện cho những trường hợp đầu tiên kể từ Đổi mới, các Phó Thủ tướng và các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực hiện hình thức nêu gương cao nhất: tự nguyện từ chức khi thấy mình không đủ khả năng hoàn thành vai trò của mình.

Khi so sánh định tính với các trường hợp trước, sự chuyển đổi này là hiển nhiên. Những trường hợp gần đây như vụ Nguyễn Thành Phong, Bùi Nhật Quang, Huỳnh Tấn Việt, các quan chức này chỉ bày tỏ ý định từ chức sau khi bị kỷ luật cảnh cáo. Sự tương phản này cho thấy chiến dịch chống tham nhũng đang tiến tới những thay đổi sâu sắc hơn, nhấn mạnh sự cần thiết của cán bộ phải chịu trách nhiệm chính trị.

Những trường hợp này cũng phản ánh Kết luận 20 của Bộ Chính trị về việc xử lý cán bộ bị kỷ luật. Thông cáo khuyến khích cán bộ bị kỷ luật tự nguyện từ chức nếu năng lực và uy tín không bị ảnh hưởng. Nếu họ không chấp nhận, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét sa thải. Việc hai Phó Thủ tướng tự nguyện từ chức thể hiện sự hiểu biết của họ về trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng và nhân dân.

Đại dịch COVID-19 và trách nhiệm đạo đức

Trong cuộc chiến chống lại đại dịch Covid-19 là sự nỗ lực chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng bên cạnh những nỗ lực đáng khen ngợi trong việc chống lại virus, còn có những trường hợp như bộ kit xét nghiệm của Việt Á, sự cố chuyến bay cứu hộ để lại tác động tiêu cực cho xã hội. Sự tham gia của hai bộ trưởng và cựu bộ trưởng đã dẫn đến việc truy tố họ, và việc bắt giữ các trợ lý của các Phó Thủ tướng đã tạo thêm một vấn đề khác cho vấn đề.

Sự giao thoa giữa những trường hợp này với hoạt động ứng phó với đại dịch làm nổi bật địa hình phức tạp mà chiến dịch chống tham nhũng phải đối mặt. Một mặt, nó thể hiện cam kết của Đảng về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình ngay cả ở các vị trí cấp cao. Mặt khác, nó đặt ra câu hỏi về bối cảnh rộng hơn và mức độ mà chiến dịch có thể dựa vào mệnh lệnh đạo đức của từng nhân vật hơn là những cải cách cơ cấu toàn diện.

Chiến dịch chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo đang có bước tiến, thể hiện rõ qua việc hai Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam từ chức. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của trách nhiệm chính trị, làm gương cho đồng chí trong Đảng. Tuy nhiên, mặc dù khía cạnh đạo đức này rất quan trọng nhưng nó phải đi kèm với những cải cách mang tính hệ thống nhằm giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của tham nhũng.

Để đạt được một khuôn khổ chống tham nhũng hiệu quả và công bằng hơn, Việt Nam phải hướng tới thiết lập một hệ thống ngăn ngừa tham nhũng ngay từ đầu. Điều này đòi hỏi các biện pháp như tăng cường kiểm tra và cân bằng, thúc đẩy tính độc lập tư pháp, bảo vệ người tố cáo và nâng cao vai trò của xã hội dân sự và truyền thông trong nỗ lực chống tham nhũng.

Việc hai Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam từ chức có thể là dấu hiệu về trách nhiệm giải trình nhưng tương lai của công cuộc chống tham nhũng ở Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Đè bẹp xã hội dân sự và làm cạn kiệt nỗ lực chống tham nhũng

0

Việt Nam, một quốc gia được đánh dấu bằng một lịch sử đầy biến động, bắt đầu hành trình chuyển đổi với sự ra đời của chính sách Đổi mới vào năm 1986. Cuộc cải cách này nhằm mở ra một kỷ nguyên mới của kinh tế thị trường và tiến triển chính trị. Trong một thời gian, có vẻ như Việt Nam đang thúc đẩy một xã hội dân sự sôi động đồng thời tích cực giải quyết vấn đề đói nghèo và xã hội với sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ quốc tế. Tuy nhiên, làn gió của sự thay đổi đã thổi theo một hướng khác.

Đàn áp xã hội dân sự

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chứng kiến sự đàn áp gay gắt đối với xã hội dân sự. Nhiều tổ chức phi chính phủ, cả trong nước và quốc tế, đã phải đối mặt với những hạn chế, quấy rối và trong một số trường hợp bị giải thể. Cuộc đàn áp, ban đầu nhắm vào các nhóm và nhà hoạt động nhân quyền chưa đăng ký, giờ đây đã mở rộng sang các tổ chức phi chính phủ đã đăng ký và các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng.

Sự thay đổi cục diện chính trị Việt Nam trở nên rõ ràng sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12 năm 2016, nơi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng giành chiến thắng. Điều này đánh dấu sự vượt trội của một cách tiếp cận tập trung vào hệ tư tưởng, gạt chủ nghĩa thực dụng kinh tế sang một bên để kiểm soát và đàn áp chặt chẽ hơn. Nhiệm kỳ của Tổng Bí thư Trọng đã chứng kiến một chiến dịch có hệ thống chống lại xã hội dân sự, dẫn đến việc bắt giữ và bỏ tù nhiều nhà hoạt động.

Nghị định 80 ban hành năm 2020 đã đưa ra những hạn chế mới đối với các tổ chức phi chính phủ, đặc biệt liên quan đến nguồn tài trợ nước ngoài. Theo nghị định này, các tổ chức phi chính phủ bị cấm nhận vốn nước ngoài mà không có sự chấp thuận trước của chính phủ. Bộ Công an đảm nhận trách nhiệm chính trong việc đánh giá, phê duyệt và giám sát việc sử dụng tài trợ nước ngoài của các tổ chức phi chính phủ. Trước đây, chức năng này do Bộ Nội vụ và các cơ quan khác thực hiện.

Trường hợp Ngụy Thị Khanh

Vụ bắt giữ và bỏ tù Ngụy Thị Khanh, người sáng lập tổ chức phi chính phủ môi trường nổi tiếng GreenID, đã gây chấn động trong bối cảnh xã hội dân sự. Việc bắt giữ cô có vẻ bề ngoài là trốn thuế thu nhập cá nhân liên quan đến một giải thưởng môi trường danh giá. Trường hợp này nhấn mạnh mức độ mà chính quyền sẵn sàng thực hiện để đàn áp xã hội dân sự.

Việt Nam thường lấy cảm hứng từ phương pháp quản trị của Trung Quốc, mặc dù có độ trễ về thời gian. Cuộc đàn áp xã hội dân sự của Trung Quốc bắt đầu một cách nghiêm túc vào năm 2014, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình. Trong những năm tiếp theo, Trung Quốc đưa ra hàng loạt luật an ninh hà khắc, hạn chế các hoạt động xã hội dân sự và nhân quyền. Về nhiều mặt, Việt Nam đã phản ánh cách tiếp cận của Trung Quốc, với Luật An ninh mạng và Nghị định 80 gần giống với các quy định của Trung Quốc.

Một tương lai u ám

Trong khi Việt Nam và Trung Quốc cam kết chống diễn biến hòa bình và cách mạng màu trong một tuyên bố chung thì xã hội dân sự ở Việt Nam phải đối mặt với một tương lai không chắc chắn và đáng ngại. Đảng Cộng sản Việt Nam dường như quyết tâm dập tắt những tiếng nói này, vốn từng hứa hẹn về một xã hội cởi mở, có trách nhiệm và minh bạch hơn.

Việc trấn áp xã hội dân sự ở Việt Nam, song song với việc làm rỗng các nỗ lực chống tham nhũng, là dấu hiệu của một vấn đề sâu sắc hơn. Việc Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng theo đuổi việc kiểm soát ý thức hệ, cùng với thái độ ác cảm với nền quản trị minh bạch, có trách nhiệm, gây nguy hiểm cho xã hội dân sự và nền quản trị công tốt của đất nước. Trong khi xã hội dân sự từng phát triển mạnh mẽ thì ngày nay nó phải đối mặt với một tương lai không chắc chắn ở một đất nước mà giai cấp chính trị cầm quyền coi trọng quyền lực của mình hơn tất cả. Tương lai của xã hội dân sự ở Việt Nam còn bấp bênh, nhưng khả năng phục hồi và quyết tâm của nó có thể vẫn chiếm ưu thế trong nỗ lực đạt được sự minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị.

Cuộc chiến chống tham nhũng khép kín của Việt Nam: Loại trừ sự tham gia của người dân

0

Tham nhũng là một kẻ thù ghê gớm, một căn bệnh ác tính ăn mòn nền tảng của bất kỳ xã hội nào. Trong khi các quốc gia trên thế giới đang vật lộn với vấn đề phổ biến này, cách tiếp cận chống tham nhũng của Việt Nam lại mang một nét độc đáo và có phần thiển cận. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tham nhũng là kiên quyết loại trừ sự tham gia của người dân, giữ kín cuộc đấu tranh. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ xem xét kỹ lưỡng chiến lược chống tham nhũng của Việt Nam, nhấn mạnh đến việc cố tình tránh lôi kéo công chúng tham gia vào cuộc chiến chống tham nhũng, điều này hoàn toàn trái ngược với các cách tiếp cận dựa trên tính minh bạch và trách nhiệm giải trình ở các nơi khác trên thế giới.

Chuyện riêng của Đảng
Ở Việt Nam, cuộc chiến chống tham nhũng được coi là vấn đề riêng tư của Đảng Cộng sản, không có sự tham gia của công chúng. Thay vì đề cao tính minh bạch và trách nhiệm công dân, Đảng theo đuổi cách tiếp cận khép kín hơn, gợi nhớ đến cách tiếp cận của Trung Quốc, như đã thấy trong Ủy ban Kiểm tra và Kỷ luật Trung ương (CDIC). Sự thiếu vắng sự tham gia của người dân hoặc sự giám sát của công chúng đặt ra câu hỏi về tính xác thực của chiến dịch chống tham nhũng của Việt Nam.


Điển hình là vụ Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cách chức mới đây. Thay vì báo trước một chiến dịch mạnh mẽ chống tham nhũng, sự kiện này lại chỉ ra những cuộc đấu tranh quyền lực nội bộ trong Đảng. Việc thiếu thông tin chính thức xung quanh việc Phúc bị sa thải khiến công chúng mù mờ về lý do chính xác đằng sau việc ông bị sa thải. Đó có phải là do tham nhũng, kém năng lực, hay vận động chính trị? Sự thiếu minh bạch làm tăng thêm nghi ngờ rằng động thái này không nhằm mục đích xóa bỏ tham nhũng mà nhằm ngăn cản Phúc lên chức Bí thư Đảng trong Đại hội toàn quốc sắp tới. Cái gọi là chiến dịch chống tham nhũng dường như giống một công cụ để giải quyết các tranh chấp chính trị hơn là một cuộc chiến nghiêm túc chống tham nhũng.

Đằng sau những cánh cửa đóng kín: Ban Chỉ đạo và Ban Kiểm tra Trung ương
Sự ác cảm của Đảng đối với sự tham gia của người dân thể hiện rõ ở vai trò của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Mặc dù Ủy ban này, trực thuộc Bộ Chính trị, đóng vai trò then chốt trong các nỗ lực chống tham nhũng của Việt Nam nhưng lại hoạt động trong vòng bí mật. Công chúng chỉ có được những hiểu biết tối thiểu về hoạt động của nó, với tất cả các quyết định và điều tra được thực hiện một cách kín đáo. Mặc dù Ủy ban báo cáo lên các cơ quan cấp cao hơn của Đảng nhưng lại mang lại rất ít sự minh bạch cho người dân Việt Nam.


Việc thiếu sự tham gia của công chúng vào các hoạt động chống tham nhũng khiến Việt Nam mất đi sự cảnh giác của chính người dân mình. Minh bạch là thành phần quan trọng trong bất kỳ chiến lược chống tham nhũng thành công nào, và nếu thiếu nó, niềm tin của công chúng vào hệ thống sẽ bị xói mòn. Trong cuộc chiến chống tham nhũng, tai mắt của người dân bình thường có thể là công cụ vạch trần hành vi sai trái. Tuy nhiên, cách tiếp cận của Việt Nam cố tình gạt bỏ tiềm năng này.

Tương phản với các thông lệ tốt nhất toàn cầu
Ngược lại, các quốc gia trên toàn thế giới đang áp dụng các phương pháp có sự tham gia trong cuộc chiến chống tham nhũng. Người dân, các tổ chức xã hội dân sự và giới truyền thông đang trở thành những nhân tố không thể thiếu trong các hoạt động chống tham nhũng. Các luật bảo vệ người tố cáo và tiếp cận thông tin đang trở nên nổi bật như những công cụ giúp trao quyền cho công chúng đóng vai trò tích cực trong việc duy trì quản trị có đạo đức. Cách tiếp cận độc quyền của Việt Nam vẫn hoàn toàn trái ngược với những thông lệ tốt nhất trên toàn cầu.


Cách tiếp cận chống tham nhũng của Việt Nam, đặc trưng bởi sự mờ ám, bí mật và loại trừ sự tham gia của công chúng, đặt ra câu hỏi về tính xác thực của chiến dịch chống tham nhũng. Để đối đầu với tham nhũng một cách hiệu quả, xã hội phải khai thác sự cảnh giác và sức mạnh tập thể của người dân. Minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của công chúng là những yếu tố cơ bản trong cuộc chiến chống tham nhũng. Chiến lược đóng cửa của Việt Nam có nguy cơ làm vấn đề tồn tại dai dẳng hơn là xóa bỏ nó. Việc thiếu sự tham gia của người dân đặt ra một tiền lệ đáng lo ngại, nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết của Việt Nam là phải đánh giá lại cách tiếp cận vấn đề tham nhũng và đảm bảo rằng người dân không bị loại khỏi cuộc chiến quan trọng này vì sự liêm chính và quản trị tốt.